Đặc điểm chung Linh ngưu Tứ Xuyên

Linh ngưu Tứ Xuyên có thể được phân biệt với các họ hàng gần gũi của nó là linh ngưu vàng nhờ màu lông của nó và những khác biệt khác về hình thái và môi trường sống. Chúng thường sử dụng so sánh với loài bò xạ hương Bắc Cực với nhiều điểm tương đồng. Những điểm giống nhau về mặt hình thái được cho là do quá trình tiến hóa hội tụ và không phải thông qua một tổ tiên chung. Có nghĩa là nhiều loài có tổ tiên khác nhau nhưng do quá trình thích nghi với môi trường sống, chúng đã tiến hóa thành những hình thái có ngoại hình tương tự nhau. Trình tự sắp xếp DNA gần đây đã tiết lộ rằng cừu là họ hàng gần với chúng (, dê rừng, cừu, bharal, cừu Barbary).

Mô tả chung

Chúng có ngoại hình to lớn và có một cái mõm giống như mõm nai sừng tấm, và với cái mũi dài này tạo cho chúng có một cái hốc xoang lớn dùng để sưởi ấm không khí khi hít thở trong điều kiện giá lạnh, giúp cho không khí vào cơ thể ấm lên mỗi một khi chúng hít vào đồng thời giúp ngăn chặn sự thất thoát nhiệt của cơ thể bằng cách thở. Về mặt kích thước và tầm vóc, chúng có khoảng cùng kích thước như một con và rất hung dữ. Với cặp sừng giống như sừng của một con linh dương đầu bò, một cái mũi giống như một con nai sừng tấm, một cái đuôi giống như một con gấu, và một thân hình như một con bò rừng, chúng trông rất lớn, vạm vỡ.

Một con linh ngưu Tứ Xuyên trưởng thành

Các ngón nhân của chúng chia vó giúp chúng di chuyển dễ dàng trong môi trường sống của vùng núi với đầy vách đá chơ vơ. Chúng cũng có một mùi có mùi giống như một sự kết hợp kỳ lạ của mùi con ngựa và mùi xạ hương. Cả con đực và con cái đều có sừng màu đen, sừng có hình lưỡi liềm sáng bóng mà phát triển từ trung tâm của cái đầu lớn của chúng và có thể dài lên tới 35 inch (90 cm). Bộ lông của chúng có thể dao động từ 3 cm (1,2 in), trên hai bên của cơ thể trong mùa hè, lên đến 24 cm (9,4 in), trên mặt dưới của đầu vào mùa đông.

Thích nghi

Linh ngưu Tứ Xuyên tiến hóa để có tính thích nghi giúp chúng giữ ấm và khô ráo trong cái lạnh buốt của mùa đông ở dãy núi Himalaya. Chúng được tiến hóa để thích nghi với điều kiện sống khắc nghiệt ở dãy Hy Mã Lạp Sơn, chúng có bộ lông giày để giữ ấm và khô trong mùa đông ở các vùng núi Himalaya mà chúng đang sinh sống. Một lớp lông dày kèm theo trong đó là lớp lông thứ cấp được bao trùm lên toàn bộ cơ thể để tránh cái giá lạnh. Mặc dù chúng không có tuyến da nhưng da có tiết ra một chất dầu cung cấp một lớp bảo vệ nước cho chúng từ các yếu tố ngoại cảnh, tuyến da, da tiết ra một chất, chất đắng nhờn hoạt động như một chiếc áo mưa tự nhiên trong các cơn bão và sương mù để tránh thấm nước vào trong lớp lông.

Tầm vóc

Chúng cùng với là bò xạ hương là những loài lớn nhất của phân họ caprinae, gồm dê, cừu và các loài tương tự. Chân ngắn, móng hai ngón. Cơ thể chắc nịch và ngực sâu. Con đực đầu đàn được có mũi dài, cong, và sừng chắc và có thể đạt tới 64 cm (25 in) chiều dài. Cả hai giới đều có sừng nhỏ mà chạy song song với hộp sọ. Chiều dài của chúng là từ 5-7,3 feet (1,5-2,2 m). Chiều cao đến vai từ 3,3-4,5 feet (1-1,4 m) Trọng lượng của con cái lên đến 616 pound (280 kg), con đực nặng tới 770 pound (350 kg). Trọng lượng nghé lúc sơ sinh từ 11-15 pound (5–7 kg).

Linh ngưu có chiều cao khi đứng từ 97–140 cm (38–55 in) tính đến vai và tương đối ngắn với chiều dài 160–220 cm (63–87 in) đối với chiều dài đầu và thân. Đuôi chỉ dài thêm một khoảng từ 12-21,6 cm (4,7-8,5 in). Trọng lượng khá nặng. Theo hầu hết các báo cáo, các con đực lớn hơn một chút, báo cáo cân nặng 300–350 kg (660-770 lb) so với 250–300 kg (550-660 lb) ở con cái. Tuổi thọ của chúng trong tự nhiên từ 16-18 năm và có thể lên đến 20 năm trong các vườn thú.